Tên di sản : Nhà cổ: Nhà thờ Tạ Công Soan
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 255/QĐ-CT
Giới thiệu
Nhà Ông Tạ Công Soan nằm ở trung tâm làng Phú Quý sầm uất từ lâu đời trên một diện tích tổng thể (gồm đất làm nhà, ao, vườn và các công trình phụ) là 1110m2. Nhà được dựng vào đời vua Khải Định năm thứ nhất (1916) triều Nguyễn (ghi trên thượng lương). Mặt trước ngôi nhà về hướng đông nam, tiếp giáp với làng Lộc Thọ, thuộc xã Hoằng Hợp, phía Đông giáp đê Sông Mã, phía Tây giáp Xã Hoằng Giang, phía Bắc giáp xã Hoằng Phú.
Về không gian kiến trúc:
Ngôi nhà ông Tạ Công Soan nằm giữa một khu đất rộng và thoáng đãng. Phía trước là sân rộng lát gạch có diện tích (dài 9,8m x 7,3m) dùng để đập lúa, phơi thóc trong những ngày mùa. Một bên sân là nhà ngang có bếp, nơi ăn, khu đựng dụng cụ nghề nông. Chuồng lợn, chuồng trâu, bò cũng đặt gần nhau bởi đây là nguồn phân bón rất quý ngày xưa và ngày nay. Khi có nguồn phân hoá học thay thế, thì nguồn phân bón từ trâu bò, lợn vẫn còn giá trị đối với nghề nông. Trước sân là vườn cây, trong đó có cả cây cảnh và những mảnh vườn rau nho nhỏ dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Liền kề với vườn là ao chiếm một vị trí trước sân nhà, ao nhà trước sân làm nhiệm vụ cải thiện môi trường sống, nhất là mùa hè. Bể nước (đặt ở góc trái nhà), cùng với vườn cây, cầu ao, cây cau, cay mít, cạnh những “Cây rơm” soi bóng xuống nền ao. Ở đây nuôi cá, thả vịt và trồng khoai nước ngay sát mặt nước,...
Xung quanh nhà được xây tường bao bọc và có cổng trước sân nhà thường gọi là “Phong môn”. Cổng “Phong môn” là hai trụ gạch được xây cao hơn bức tường bao, phía trên được đổ bằng và đắp hình chữ nổi năm xây dựng. Loại cổng này thực chất là cổng được xây dựng với hai trụ gạch hai bên cửa cuốn dưới những mái đắp hình ngói ống đã được biến thể.
Sự sắp đặt trong các gian nhà hầu như tạo nên một nền nếp. Ba gian ngoài cùng: gian giữa là nơi đặt bàn thờ gia tiên, đồng thời là nơi tiếp khách của ông chủ. Hai gian bên là nơi ngủ của gia đình được bày hai giường đối diện. Hai gian buồng ít ánh sáng vừa là nơi; chứa đồ quý, quần áo, kể cả thóc gạo trong chum vại, rương gỗ,...Nhìn chung, cách bố trí hiện tại ở ngôi nhà ông Tạ Công Soan chứng tỏ ngôi nhà này trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, gia chủ là một gia đình khá giả, giàu có.
Kiến trúc toàn bộ ngôi nhà được cấu trúc 5 gian (3 gian ngoài, 2 gian chái). Diện tích nhà là 65,52m2 (dài 12,60m x rộng 5.20m), với 6 vì kèo gỗ được cấu trúc thành 3 cấp giống nhau về kiểu liên kết. Chiều cao của ngôi nhà từ thượng lương xuống nền là 3,86m. Từ đầu cột cái đến chân tảng 3,31m, cột quân 2,63m, cột hiên (sau, trước) 2,09m. Hai vì kèo gian giữa: Được cấu trúc trên 5 hàng chân cột có kết cấu “Vì kèo suốt giá chiêng”. Kèo được ráp vào đầu các cột bằng hệ thống xà gọi là xà thượng, xà đại, xà con, xà hạ. Hai bộ vì này đứng lực trên 2 cột cái chạy suốt tới nóc được cấu trúc bởi hệ thống xà nách. Tiếp giáp với xà nách là quá giang (còn gọi là xà lòng) được ăn mộng vào giữa cột cái (tính từ tường đốc phía sau) chạy sang ăn mộng vào đầu cột con ở mái trước. Trên quá giang là một trụ trốn (thay cho cột cái - còn gọi là cột trốn) đứng trên một đấu vuông thót đáy cùng với cột cái được bổ mộng để đỡ cầu đầu. Trên câu đầu là hệ thống các con rường (gồm 3 con rường) được ăn mộng vào 2 trụ trốn ngắn tạo thành giá chiêng và trên cùng là 1 con rường nằm ngang chạy ra cả hai mái đỡ một dấu hình thuyền, trên đấu hình thuyền là thượng lương. Theo kết cấu của hai bộ vì kèo gian giữa này thì lòng nhà ở 3 gian giữa được mở rộng.
Hai vì kèo sát 2 buồng ở hai đầu nhà cũng có kiểu liên kết giống nhau. Ở hai vì kèo giữa thì cột trốn gian mái trước tỳ lực trên quá giang thì ở gian hồi được thay thế bằng cột cái với 6 hàng chân cột. Kết cấu của vì kèo này bắt đầu từ đầu cột con là một xà nách ăn mộng từ đầu cột quân ở mái sau và ăn mộng vào cột cái. Liền với xà nách là một quá giang được ăn mộng vào đầu cái (ở mái sau) chạy sang ăn mộng vào cột cái ở mái trước. Tiếp theo lại là một xà nách ăn mộng từ cột cái chạy sang đầu cột quân. (5 phía trên là câu đầu được ăn mộng vào hai đầu cột cái. Trên câu đầu là hai trụ trốn để che các con rường được liên kết theo hình đường triện ngắn dần về phía nóc mái. Trên cùng là một con rường bụng lợn nằm ngang cả hai mái đỡ một dấu hình thuyền để đỡ thượng lương. Ở 2 vì kèo gian hồi này, trên các vách ngăn cách được lát ván bưng theo kiểu đố lụa và được mở một cửa đi thông vào buồng. Nhìn chung, hai vì kèo hồi này được dừng những bức ván từ trên đỉnh mái xuống sát nền nhưng nhằm mục đích tạo nên sự riêng biệt giữa hai gian chái và 3 gian chính của ngôi nhà. Những bức ván được làm theo kiểu đố lụa được bố trí trong các ô to nhỏ khác nhau theo những quy luật đăng đối, tạo nên sự vui mắt của toàn bộ vì kèo. Những ván này còn được người thợ tạo thành những dường gờ soi chỉ ở toàn bộ bề mặt của vì kèo bên.
Một điểm khác nữa là ở ngoài hiên của vì kèo giữa là các kẻ chuyền thì ở vì kèo hiên ngoài kẻ chuyền còn có các bức "cốn". Các cốn này được ăn mộng vào xà nách và cột quân theo thứ tự từ thấp lên cao vừa làm nhiệm vụ đỡ các ván nong, vừa là nơi để trang trí những bức chạm khắc trên các ô trống của cốn.
Hai vì kèo sát tường vỉ (ở trong buồng) có kết cấu cơ bản giống hai vì kèo sát gian buồng, chúng chỉ có khác nhau là các bộ phận làm nên kết cấu này được bào trơn đóng bén, không có chạm khắc gì.
Ở phía trước là hệ thống 3 gian cửa bức bàn được ngăn cách để tạo nên nhà trong và mái hiên.
Phần liên kết giữa mái hiên và vì kèo tạo nên mái nhà là hệ thống các kẻ bẩy. Các kẻ bẩy của các gian này vươn qua không gian hiên, được ăn mộng vào đầu cột quân, đầu kẻ được ăn mộng vào đầu cột biên, đầu kẻ đỡ tàu mái. Để mở rộng diện tích sử dụng, từ đầu kẻ chính, được nối thêm một hệ thống kẻ nối vì thế mà mái nhà sà xuống thấp trùm nền. Kết cấu này cũng là một trong những đặc điểm của kiến trúc người Việt với việc chống mưa, nắng, gió bão ở một xứ sở nhiệt đới.
Phía trên cùng là mái, bao gồm các hoành tải được xẻ vuông thành sắc cạnh, được chọn theo tập quán theo thứ tự "Sinh, lão, bệnh, tử" của người xưa. Trật tự "Sinh, lão, bệnh, tử" cũng bị chi phối bởi số lượng rui và hoành tải đỡ ngói. Trong cả hai mái có 26 đường hoành.
Trên đây là kết cấu chung của hai vì kèo giữa, còn hai vì kèo hiên tiếp giáp với hai gian chái nhìn chung cơ bản giáp nhau, chỉ có khác vì kèo này do nằm sát gian chái nên không ảnh hưởng đến diện tích sử dụng của ngôi nhà, đồng thời cũng để làm tăng thêm sự vững chắc của ngôi nhà nên việc đỡ vì kèo (câu đầu) là hai cột cái vươn thẳng từ câu đầu xuống nền nhà, còn ở vì kèo giữa ở hái trước thì lại được thay thế bằng một trụ trốn đường trên quá giang.
Về nghệ thuật trang trí:
Ngôi nhà có lịch sử gần 100 năm và nó đã cό một vài tu sửa nhỏ. Đây là một ngôi nhà có một kiến trúc độc đáo. Tuy nhiên, phần trang trí trên các bức cốn, ván nong cũng như bộ khung gỗ trang trí được bào nhẵn và soi những đường gờ chỉ để tạo nên sự mềm mại, uyển chuyển và vui mắt. Còn toàn bộ kiến trúc của ngôi nhà chỉ chạm hình hoa lá ở các đầu kẻ bẩy và một vài phiến đoạn khác như các bức cốn, khung gỗ trang trí ở vì kèo v.v...
Tóm lại, qua kiến trúc như đã mô tả thì đây là một trong những ngôi nhà có kết cấu tiêu biểu truyền thống của người Việt đồng bằng.
Loại di tích:
Ngôi nhà của gia đình ông Tạ Công Soan là một công trình có giá trị về kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn. Trong nền kiến trúc dân gian của người Việt đồng bằng, ngôi nhà này ngoài quy mô bề thế, nó còn là một công trình tiêu biểu cho thức kiến trúc dân gian ở khu vực Bắc Trung bộ Việt Nam.